Conflict misses(lệch do xung đột) CPU cache

Là những trường lệch mà đã có thể tránh khỏi, nếu như bộ nhớ đệm đã không đuổi (evict) một sự nhập vào của một entry trước đó. Lệch do xung đột có thể trở thành mapping misses về sau, và replacement misses.

Biểu đồ sau cho thấy khả năng vận hành của bộ nhớ đệm theo phần số nguyên của SPEC CPU2000, ghi nhận bởi Hill và Cantin. Những điểm mốc này tượng trưng cho khối lượng công việc một máy tính kỹ thuật có thể gặp một ngày.

Ở góc bên phải, khi cache size là Inf, chúng ta cò lệch cưỡng chế. Nêu chúng ta muốn nâng cáo tính năng của SpecInt2000, nâng kích cỡ của bộ nhớ đệm lên hơn 1MB là không hiệu quả. 

Tỉ lệ lệch của bộ nhớ đệm với cấu trúc "liên kết đầy đủ (Fully-associated cache) ở đây gần như đại diện cho lệch dung lượng (capacity miss rate). Sự khác nhau ở đây là dữ liệu đưa ra là do phỏng đoán, dựa trên chính sách thay thế của LRU. Đưa ra tỉ lệ lệch đòi hỏi một chính sách thay thế hoàn hảo, như là một hệ thống hướng dẫn có thể chỉ ra một cổng bộ nhớ đệm chắc chắn không phải là một hit.

Chú ý rằng sự ước lượng của tỉ lệ lệch dung lượng giảm rất nhanh ở 32KB và 64KB. Cho thấy ở mốc này có "working set" vào khoảng 64KB. Một nhà thiết kế CPU sẽ có động cơ để thiết kế kích cỡ của bộ nhớ đệm là 64KB thay vì 32KB. Chú ý,  trên những cột trên biểu đồ này, không có một tính chất kết hợp nào có thể làm một cache 32KB vận hành bằng một cache 64KB với liên kết 4 chiều hay thậm chí một cache thiết kế ánh xạ trực tiếp 128KB.

Cuối cùng, chú ý rằng ở giữa mốc 64KB và 1MB có 1 sự khác biệt rất lớn về cache cấu trúc ánh xạ trực tiếp và cache cấu trúc liên kết đầy đủ. Sự chệch lệch này chính là lệch cưỡng chế (conflict miss cache).